chuyển nhà thành hưng Công việc chính của Minh không cho anh nhiều cơ hội để học tiếng Kinh: anh là một công nhân dọn rác dưới hầm chung cư. Ngăn cách giữa người đàn ông dân tộc Tày và đời sống xã hội là những tấm bê tông dày trên đầu. Kết nối đáng kể nhất giữa anh và những cư dân thành phố này là một chiếc ống rác thông tầng. Người ta ném rác vào ống, Minh thu dọn ở phía dưới, cho lên xe và đẩy đi.


Anh Minh trong xóm trọ tại Trung Văn, Hà Nội
Tên Minh được bố anh đặt với ước mong đời con trai sẽ “tươi sáng”, nhưng thực tế, ánh sáng chủ yếu của đời anh là chiếc đèn vàng vọt trong hầm rác. Chàng trai quê ở Hà Giang, năm ấy lọt vào mắt xanh của cô gái người Nam Định rồi thành vợ chồng. Ở vùng biên phải chạy ăn từng bữa, họ phiêu bạt đến Hà Nội đi nhặt rác.

Đó là chân dung tiêu biểu cho một lực lượng vẫn đang là xương sống cho hoạt ng thu gom rác tại các đô thị lớn của Việt Nam - nền kinh tế lớn thứ 34 thế giới. http://chuyennhathanhhunghanoi.com



Đêm 8/3, ông Năm trở về phòng trọ muộn. Đóa hồng nhung giắt giỏ xe đạp, chen giữa lỉnh kỉnh túi đựng chai nhựa treo ở tay cầm.

Xóm trọ nép sâu sau hàng loạt ngõ ngách, lọt thỏm giữa những dãy nhà cao tầng của khu Trung Văn. Ở cuối xóm, là nơi ông Năm sống với người phụ nữ của đời mình. Đóa hồng có giá ba lăm nghìn đồng. Đếm đi đếm lại số tiền bán phế liệu một ngày được hai tám nghìn, ông phụ thêm bảy nghìn để mang hoa về tặng vợ.

Nhà ông bà là một cái ổ chuột trong khu ổ chuột, quây tạm bằng những tấm fibro xi măng, liếp, vá víu bằng ván gỗ, bao bì. Khu nhà trọ mọc lên giữa khu đất chưa xây dựng, là xóm ngụ cư của hơn 30 gia đình, từ công nhân vệ sinh, đồng nát, xe ôm đến thợ phá nhà.

Bà Tươi vẫn chưa về. Bông hồng được ông Năm cắm vào cái cốc nhựa, rồi đi ngủ.

Hôm đó, vợ chồng ông không nhìn thấy mặt nhau. Ngày lễ, lượng rác phải thu gom tăng gấp đôi, bà Tươi trở về nhà muộn khi đồng hồ nhích sang ngày 9/3 đã vài tiếng.


Ông Năm, một công nhân vệ sinh không hợp đồng tại Hà Nội
Ông Năm vẫn nhớ cái cảm giác lờm lợm nơi cổ họng khi lần đầu tiên gom rác về điểm tập kết. Giữa cái nắng tháng Bảy năm ngoái, mắt ông hoa lên khi cái bịch nylon màu đen bị bục, một vài thứ nhầy nhụa tuôn ra, mùi khó tả của rác lưu cữu xông lên mặt, lên mũi.

Đêm đó về, ông bỏ cơm, nằm thừ trên giường, vẫn ngửi thấy mùi rác quẩn quanh nơi cánh mũi. “Ở quê làm ruộng, quen mùi bùn, thò tay rải phân, đổ ải cũng chưa bao giờ gặp thứ mùi như thế”, ông tả. Hai tháng đầu, đôi bàn tay bóc da liên tục, về rửa xà phòng mấy lượt vẫn còn mùi. Giờ thì quen rồi, ông có thể chui vào hốt sạch hầm rác của khu chung cư hơn nghìn dân mà không cảm xúc.

Hai sào ruộng quê không nuôi nổi bốn miệng ăn, tháng 7 năm ngoái, vợ chồng ông dắt díu từ Nam Định lên Hà Nội xin làm công nhân vệ sinh môi trường. Làng Thanh Trà, xã Xuân Phong, huyện Xuân Trường quê ông, người ta lũ lượt lên Hà Nội làm nghề này. Họ ở thành từng xóm lao ng giữa thủ đô, trong khu Hoàng Cầu, Trung Văn.

Công ty môi trường nhận hồ sơ của bà Tươi, người phụ nữ đậm người, nói năng lanh lẹ. Còn ông chồng chấp nhận trở thành “công nhân nước hai”.

Mỗi khi công nhân môi trường “chính quy” có việc về quê, muốn nghỉ một vài hôm, họ sẽ gọi ông Năm đi làm hộ. Tiền công họ đưa trực tiếp cho ông Năm, không liên quan gì đến công ty. Không hợp đồng, không BHXH, không trợ cấp, ông cầm tiền tươi, như một cửu vạn tự do. “Chân trong chân ngoài vậy mà tiện” - ông tỏ ra hài lòng.


Khung cảnh xóm ngụ cư Trung Văn.
Một trong những đặc tính quan trọng của ngành xử lý rác Việt Nam, như hầu hết các nước thu nhập thấp, theo Ngân hàng Thế giới là chi phí quá lớn cho thu gom và vận chuyển.

Phần lớn các nước thuộc nhóm thu nhập thấp tiêu tới hơn 80% tổng chi phí cho việc thu gom, chỉ còn 20% cho xử lý rác. Nhưng chi phí cao cũng không đảm bảo hiệu quả: chỉ 46% lượng rác thải được thu gom đến đúng địa chỉ. Lý do quan trọng, là do nó được thực hiện thủ công bởi "tiếng chổi tre" của những người như vợ chồng ông Năm.


Nguồn: World Bank (2012)
Trong khi đó, tại các quốc gia có thu nhập cao, thì chi phí thu gom chiếm không tới 10% - do quy trình gom rác đã được tự ng hóa. Và hiệu quả thu gom đạt tới 90%.

Trong bài toán tỷ đô của ngành môi trường Việt Nam, bông hồng ngày 8/3 bị bà Tươi phàn nàn là tốn kém. Bà nhẩm tính, 35.000 đồng mua được cái bắp cải với ba lạng thịt ở chợ Phùng Khoang. Với bà, món quà cho ngày Quốc tế phụ nữ, chỉ là mong muốn có thêm một bữa cơm có thịt.

“Thì cũng phải tặng cho có tí không khí chứ”, ông Năm vặc lại vợ.

Nửa thế kỷ kể từ sau khi “tiếng chổi tre quét rác đêm Hè” được Tố Hữu biến thành biểu tượng, công việc thu gom rác tại các đô thị vẫn trông chờ một phần lớn vào lực lượng chân tay "như sắt như đồng", như ông Năm và bà Tươi. Hay anh Minh, người dành cả thanh xuân để học tiếng Việt dưới hầm rác chung cư.



Minh ngại giao tiếp. Anh nói tiếng Kinh không sõi, dù đã xuống Hà Nội mười năm. Minh không nhớ số tuổi hai đứa con trai, cũng không nhớ mình nghỉ học từ năm lớp mấy. Anh chỉ nhớ cả hai đứa trẻ đều bỏ học sớm như bố nó, giờ ở nhà chơi, thi thoảng phụ mẹ đi gom rác, mang phế liệu về.

Sau lớp khẩu trang, Minh không có nhiều dịp giao tiếp. Công việc của “công nhân nước hai” như anh Minh giờ là gom rác từ hầm chứa của tòa nhà gần 20 tầng trên phố Hoàng Đạo Thúy. Người đàn ông chấp nhận chui vào hầm nóng, ngạt thở vì mùi rác nhưng nhiều “hàng” hơn ở ngoài và không bị ai tranh nhặt trước. "Hàng” là những loại chai lọ nhựa mà cư dân vứt lẫn trong rác.


Vợ và con lớn anh Minh trong hầm rác
Sau mười năm, nghề nhặt rác đã thành gia truyền. Bốn người trong nhà cùng một sự nghiệp. Hai đứa trẻ con lớn lên trong môi trường đặc thù của những hầm rác, đã quen thuộc và quấn quít với nơi này.

Buổi sinh hoạt gia đình diễn ra lúc bảy giờ tối. Ngày anh Minh đi vắng, chị Nhụ phụ trách hai nhân sự thiếu niên. Mẹ và con trai lớn hốt rác phía trong, thằng em đeo đôi găng tay nylon đứng đợi sẵn bên ngoài. Nó có nhiệm vụ phân loại những thứ bay ra khỏi hầm: túi này đựng bìa carton, giấy, vỏ hộp bánh; túi kia chứa chai, lọ nhựa, vỏ lon bia.


Con trai thứ hai của anh Minh hào hứng phân loại rác
Riêng mấy cái chai thủy tinh có dán nhãn, bên ngoài in chữ không phải tiếng Việt, giông giống nhau được nó để chung một hàng.

Mẹ vẫn hay bán 30.000 đồng một cái vỏ chai ấy. Thằng bé phấn khởi xếp lũ chai vào một cái túi đen. Vỏ chai rượu ngoại hết ruột từ lâu đã là hàng có giá ở Việt Nam. Chúng được dùng cho việc “sưu tầm” hay là để đổ ruột mới vào bán tiếp, không thuộc chức trách của gia đình Minh Nhụ. “1,2,3,4,5”, thằng cu đếm vỏ chai, cười không khép được mồm.

Hai xe rác đầy đến mép, chị Nhụ vừa đẩy ra ngoài thì nghe cái “bịch”. Túi rác từ trên giời rơi xuống bục ra, cơm thừa, cuộng rau muống thối đen lẫn với bỉm, mảnh sứ vỡ văng tung tóe. Thằng con trai lớn tránh không kịp, nước nhầy nhụa bắn lên chiếc quần nó mới thay lúc tối. Mùi chua, thối bay khắp hầm. Thằng bé không nói gì, chỉ co chân sút cái vỏ lon nước ngọt qua cửa hầm nghe đánh keng một tiếng, rồi hốt nốt bãi rác lên xe.

Gia đình anh Minh và ông Năm là những "đứa con lai" của ngành thu gom rác thải. Họ vừa nhận lương làm nhân công của hệ thống thu gom rác thải "chính ngạch" do Nhà nước thiết kế, vừa tham gia vào hệ thống "đồng nát" tồn tại phi chính thức để đảm bảo thu nhập. Sự tồn tại của họ, dựa vào một thực tế: Việt Nam là một trong những nước thải rác nhựa (plastic) nhiều nhất thế giới