Cấp mã số thuế - Ngày 18 tháng 07 năm 2007, Bộ tài chính đã ban hành Thông tư số 85/2007/TT-BTC hướng dẫn thi hành Luật quản lý thuế về việc đăng ký thuế.

Theo đó, chủ doanh nghiệp tư nhân, cá nhân, chủ hộ kinh doanh có các cơ sở, cửa hàng kinh doanh đóng tại các địa bàn quận, huyện, thị xã hoặc tỉnh khác nhau thì ngoài mã số thuế chính 10 số còn được cấp các mã số thuế 13 số để kê khai nộp thuế cho các cơ sở, cửa hàng kinh doanh với cơ quan thuế trực tiếp quản lý thu thuế cơ sở, cửa hàng này...

Trường hợp nhà thầu, nhà thầu phụ nước ngoài trực tiếp nộp thuế tại Việt Nam khi thực hiện dự án đầu tư, đã đăng ký thuế và được cơ quan thuế cấp mã số thuế 10 số, nếu phát sinh các hợp đồng (thuộc dự án) tại các địa điểm khác, thì nhà thầu phải kê khai đăng ký thuế để được cấp mã số thuế 13 số cho các Ban điều hành dự án hoặc nhà thầu, nhà thầu phụ nước ngoài trực tiếp thực hiện từng hợp đồng…

Đối với trường hợp nhà thầu và nhà thầu phụ nước ngoài, các hợp đồng, hợp tác kinh doanh của Việt Nam với người nước ngoài, nhưng bên nước ngoài không trực tiếp nộp thuế tại Việt Nam, thì bên Việt Nam ký hợp đồng với nhà thầu có trách nhiệm kê khai và nộp thuế cho bên nước ngoài. Bên Việt Nam được cấp một mã số thuế 10 số để sử dụng cho việc kê khai, nộp hộ thuế cho các nhà thầu, nhà thầu phụ nước ngoài. Trường hợp bên Việt Nam ký hợp đồng là doanh nghiệp đã được cấp mã số thuế thì không được sử dụng mã số thuế của doanh nghiệp để kê khai, nộp thuế cho các nhà thầu, nhà thầu phụ nước ngoài…

Thông tư này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.

Chính sách thuế GTGT– Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, cho, biếu tặng, khuyến mại, quảng cáo, trả thưởng, trả thay tiền lương cho người lao ng hoặc tiêu dùng nội bộ không phục vụ cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT thì phải lập hoá đơn GTGT (hoặc hoá đơn bán hàng), trên hoá đơn ghi đầy đủ các chỉ tiêu và tính thuế GTGT như hoá đơn xuất bán hàng hoá cho khách hàng.

Theo đó, trường hợp một công ty bán hàng hoá có khuyến mại bằng hàng cho khách hàng thì công ty phải lập hoá đơn và kê khai thuế GTGT đối với cả số hàng khuyến mại cho khách hàng. (Theo Công văn số 2945/TCT-HT ngày 26 tháng 07 năm 2007 của TCT).

Thuế GTGT – Theo quy định hiện hành, đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mới đã đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt ng, chưa phát sinh thuế đầu ra, và thời gian đầu tư từ 1 năm trở lên thì cơ sở kinh doanh vẫn phải lập tờ khai thuế hàng tháng và được xét hoàn thuế đầu vào hteo từng năm dương lịch. Nếu số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế theo quý (3 tháng liên tục không phân biệt theo năm dương lịch).

Theo đó, trường hợp một công ty có số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn tổng hợp 3 tháng liên tục có giá trị lớn hơn 200 triệu thì công ty đó làm thủ tục đề nghị hoàn thuế theo quý. (Theo Công văn số 2932/TCT-CS ngày 26 tháng 07 năm 2007 của TCT).

Thuế suất thuế GTGT – Dịch vụ sửa chữa, bảo hành áp dụng thuế suất thuế GTGT 10%. Riêng sửa chữa máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải là sản phẩm cơ khí; dịch vụ đăng kiểm các phương tiện và thiết bị giao thông vận tải áp dụng thuế suất thuế GTGT 5%.

Theo đó, dịch vụ sửa chữa, bảo dưỡng xe ô tô các loại thuộc đối tượng chịu thuế GTGT với thuế suất 5%. Trường hợp một công ty sửa chữa có bán kèm theo phụ tùng thay thế thì áp dụng thuế suất thuế GTGT đối với từng loại phụ tùng phù hợp theo quy định của luật.

Trường hợp công ty đó sửa chữa xe bị tai nạn như làm đồng sơn lại xe là dịch vụ sửa chữa phương tiện vận tải theo quy định trên thuộc đối tượng chịu thuế GTGT với thuế suất 5%. (Theo Công văn số 2924/TCT-CS ngày 25 tháng 07 năm 2007 của TCT).

Chính sách thế GTGT đối với lãi tiền gửi từ hoạt ng uỷ thác– Theo quy định hiện hành, dịch vụ tín dụng và quỹ đầu tư bao gồm hoạt ng cho vay, bảo lãnh cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá trị như tiền thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT.

Theo đó, trường hợp một ngân hàng uỷ thác cho một tổ chức kinh tế để gửi tiền có kỳ hạn các tổ chức tín dụng khác bằng một hợp đồng uỷ thác cụ thể thì lãi tiền gửi thu về từ hoạt ng này là lãi tiền gửi từ dịch vụ tín dụng nên thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. (Theo Công văn số 2921/TCT-CS ngày 25 tháng 07 năm 2007 của TCT).

Thuế GTGT đối với chuyển nhượng vườn cây – Theo quy định hiện hành, sản phẩm trồng trọt (bao gồm cả sản phẩm rừng trồng), chăn nuôi, thuỷ sản, hải sản, nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc mới sơ chế thông thường của các tổ chức, cá nhân tự sản xuất trực tiếp đánh bắt bán ra không thuộc diện chịu thuế GTGT.

Đồng thời, sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản, hải sản đánh bắt chưa qua chế biến …ở khâu kinh doanh thương mại áp dụng thuế suất thuế GTGT là 5%.

Theo đó, đối với vườn cây do cơ sở kinh doanh tự trồng khi bán ra thì không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Đối với vườn cây do cơ sở kinh doanh mua vào để bán ra ở khâu kinh doanh thương mại, áp dụng thuế suất thuế GTGT 5%. Đối với các trường hợp đã thu thuế GTGT khác với hướng dẫn tại công văn thì không xử lý lại. (Theo Công văn số 2918/TCT-CS ngày 25 tháng 07 năm 2007 của TCT).

Bộ chứng từ uỷ thác xuất khẩu trong hoàn thuế GTGT – Theo quy định hiện hành, thủ tục cần thiết đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu được khấu trừ/hoàn thuế là: Hợp đồng bán hàng hoá cho tổ chức cá nhân nước ngoài. Trường hợp uỷ thác xuất khẩu thì phải có hợp đồng uỷ thác xuất khẩu; Tờ khai hải quan về hàng xuất khẩu có xác nhận của cơ quan hải quan đã xuất khẩu; Hàng hoá xuất khẩu phải thanh toán qua ngân hàng; Hoá đơn GTGT bán hàng hoá cho nước ngoài. Trường hợp xuất khẩu uỷ thác, hoá đơn GTGT sẽ là hoá đơn do đơn vị đi uỷ thác xuất cho đơn vị nhận uỷ thác ghi rõ số lượng, giá trị về số hàng hoá đã thực xuất. Thủ tục hồ sơ để giải quyết hoàn thuế GTGT đối với trường hợp uỷ thác xuất khẩu theo quy định hiện hành.

Theo đó, trường hợp một công ty uỷ thác xuất khẩu qua một công ty khác để xuất khẩu hàng hoá nhưng Tờ khai hải quan hàng xuất khẩu không đảm bảo điều kiện là hàng xuất khẩu uỷ thác và không có xác nhận thực xuất của cơ quan hải quan cửa khẩu xuất nên không được xem xét khấu trừ/ hoàn thuế theo quy định. (Theo Công văn số 2911/TCT-CS ngày 25 tháng 07 năm 2007 cuả TCT).